Sau khi hiểu được giáo dục quốc phòng là gì, ta cần nắm rõ tầm quan trọng của giáo dục quốc phòng đối với đời sống:
Chuyên ngành Giáo dục Hán ngữ Quốc tế là gì?
Chuyên ngành Giáo dục Hán ngữ Quốc tế là một môn học chuyên ngành đại học trong hệ thống giáo dục bậc cao, thuộc chuyên ngành Văn học Trung Quốc.
Chuyên ngành Giáo dục Quốc tế Tiếng Trung chủ yếu đào tạo cho sinh viên có những kiến thức cơ bản và kỹ năng cơ bản về giáo dục quốc tế tiếng Trung, cùng với kiến thức song ngữ tiếng Trung và tiếng Anh (ngoại ngữ) và khả năng ứng dụng thực tế. Nhằm giảng dạy tiếng Trung quốc tế và quảng bá tiếng Trung quốc tế hoặc làm việc trong các cơ quan liên quan trong và ngoài nước và các doanh nghiệp văn hóa để thực hiện giao lưu văn hóa giữa Trung Quốc và nước ngoài, cũng như thực hiện các công việc văn thư liên quan.
Mục tiêu đào tạo của chuyên ngành Giáo dục Hán ngữ Quốc tế
Với chuyên ngành Giáo dục Hán ngữ Quốc tế, sinh viên của chuyên ngành này sẽ có nền tảng ngôn ngữ tiếng Trung vững chắc, trình độ văn học cao và nắm vững kiến thức cơ bản về ngôn ngữ, văn học Trung Quốc.
Đồng thời sinh viên được trang bị khả năng cảm nhận văn học mạnh mẽ, khả năng đọc hiểu các văn bản cổ điển, khả năng thẩm mỹ, đánh giá cùng với khả năng biểu đạt bằng ngôn ngữ qua văn bản và lời nói. Ngoài ra, sinh viên còn được trang bị thêm khả năng xử lý thông tin văn bản trên máy tính và kỹ năng giao tiếp, giao lưu giữa các cá nhân.
Một số giải pháp về giáo dục quốc phòng an ninh cho sinh viên
Nhìn chung, công tác quốc phòng an ninh cho sinh viên đã được các trường đại học, cao đằng và các cơ quan thực hiện nghiêm túc. Tuy nhiên do tính đặc thù của môn học nên công tác giáo dục quốc phòng an ninh cho sinh viên còn gặp một số khó khăn bất cập như: Thiếu cơ sở vật chất, trang thiết bị, chương trình chưa phù hợp với lịch học, vấn đề bãi tập,..). Vậy giải pháp cho giáo dục quốc phòng là gì? Để khắc phục những điều ấy cần giải quyết theo những hướng sau:
- Chú trọng xây dựng chất lượng và số lượng đội ngũ giảng viên: Đây là vấn đề tác động và chi phối trực tiếp tới kết quả của môn học. Do số lượng sinh viên đông, nên nhu cầu về số lượng giảng viên rất lớn trong khi đó công tác đào tạo giảng viên giáo dục quốc phòng an ninh lại chưa hề được chú trọng. Có thể thấy một tình trạng phổ biến hiện nay là số lượng giảng viên hầu như đều là những sĩ quan quân đội biệt phái. Tuy họ có kinh nghiệm dày dặn và nhiều kiến thức song trình độ giảng dạy không thể bằng các giảng viên đại học. Chính vì vậy, các cơ sở giáo dục cần thực hiện các chính sách, xác định các biên chế tổng thể, đồng thời phải lựa chọn và bố trí giảng viên đi đào tạo văn bằng 2 về giáo dục quốc phòng.
- Nghiên cứu, bổ sung chương trình đảm bảo sự hấp dẫn về chất lượng cho người học: Chương trình giáo dục quốc phòng hiện nay đang phù hợp với mục tiêu song có khá nhiều sinh viên có ý kiến rằng môn học khô khan, khó nhớ, khó hiểu (nhất là các môn học mang tính đường lối, quan điểm). Vì vậy khung chương trình cần thay đổi để phù hợp, bám sát chuyên ngành, cập nhật các tin tức tình hình thời sự trong nước và các vấn đề chính trị để đảm bảo người học có hứng thú.
- Đổi mới phương pháp dạy học: Các phương pháp truyền thống như: Thuyết trình, giảng giải, phân tích cần được thay thế vận dụng những công nghệ phương tiện hiện đại trong quá trình dạy học. Phương pháp này cũng hạn chế thói quen truyền thụ 1 chiều trong giảng dạy, tăng cường gợi ý, trao đổi, tổ chức thảo luận kết hợp với việc phát huy tinh thần tự học và tăng cường huấn luyện thực hành.
Qua những thông tin trên, chắc hẳn bạn đọc đã nhận thức được giáo dục quốc phòng là gì. Môn học tuy không khó nhưng sẽ đòi hỏi các bạn học sinh, sinh viên cần phải có ý thức và tính kỷ luật trong quá trình học tập. Mong rằng Timviec365 đã trang bị cho bạn những kiến thức thực sự cần thiết trước khi bước vào trải nghiệm môn học này nhé!
Tại Nghị quyết 29-NQ/TW, Đảng ta xác định: Chủ động hội nhập quốc tế về giáo dục, đào tạo trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa và thành tựu khoa học, công nghệ của nhân loại. Hoàn thiện cơ chế hợp tác song phương và đa phương, thực hiện các cam kết quốc tế về giáo dục, đào tạo. Tăng quy mô đào tạo ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước đối với giảng viên các ngành khoa học cơ bản và khoa học mũi nhọn, đặc thù. Khuyến khích việc học tập và nghiên cứu ở nước ngoài bằng các nguồn kinh phí ngoài ngân sách nhà nước. Mở rộng liên kết đào tạo với những cơ sở đào tạo nước ngoài có uy tín, chủ yếu trong giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp; đồng thời quản lý chặt chẽ chất lượng đào tạo… Trên cơ sở đó, Đề án “Hội nhập quốc tế về giáo dục và dạy nghề đến năm 2020” (Đề án) đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2448/ QĐ-TTg ngày 16/12/2013 với quan điểm: (1) Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm về giáo dục và dạy nghề của thế giới theo nguyên tắc giữ vững độc lập, tự chủ, bình đẳng, hợp tác và cùng có lợi; (2) Thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa các hình thức hợp tác, đầu tư với nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục và dạy nghề ở trong và ngoài nước; tranh thủ các cơ hội để thu hút hiệu quả các nguồn lực nhằm nâng cao quy mô và chất lượng nguồn nhân lực; (3) Hội nhập quốc tế về giáo dục và dạy nghề góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, mở rộng thị trường lao động và phát triển khoa học, công nghệ của đất nước; tăng cường giao lưu văn hóa và học thuật quốc tế. Mục tiêu chung là đến năm 2020, phát triển một số cơ sở giáo dục đại học và dạy nghề đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và thế giới; đổi mới nội dung, chương trình đào tạo và dạy nghề tiếp cận nền giáo dục tiên tiến của các nước; tiến tới công nhận văn bằng, chuyển đổi tín chỉ và kỹ năng nghề giữa Việt Nam với các nước ASEAN và các nước khác trên thế giới; tăng cường quy mô học sinh, sinh viên, học viên gửi đi đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài, đồng thời thu hút học sinh, sinh viên, học viên nước ngoài đến học tập tại Việt Nam; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục và dạy nghề các cấp phục vụ hội nhập quốc tế.
Thực tiễn thực hiện hội nhập quốc tế trong giáo dục và đào tạo
Việc triển khai các hoạt động hợp tác và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo thời gian qua theo nội dung của Đề án nói trên đã góp phần tích cực vào việc xây dựng con người Việt Nam phù hợp với yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; tiếp thu những giá trị văn hóa của nhân loại; bảo tồn, phát huy và quảng bá các giá trị văn hóa của Việt Nam; nâng cao hình ảnh của đất nước và con người Việt Nam; tranh thủ tối đa các nguồn lực quốc tế nhằm thực hiện thành công các mục tiêu chiến lược về giáo dục, đào tạo, giáo dục nghề nghiệp; chú trọng nâng cao nguồn nhân lực và năng lực khoa học - công nghệ. Việt Nam đã có những bước đi chủ động, tích cực trong hội nhập quốc tế về giáo dục và đạt được nhiều kết quả tích cực trên cả hai phương diện. Một mặt, đẩy mạnh hợp tác quốc tế truyền thống về giáo dục theo cơ chế phi thương mại. Mặt khác, triển khai thực hiện thương mại dịch vụ giáo dục theo các cam kết đã ký trong Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS)(1).
Theo thống kê của Bộ Giáo dục và đào tạo, tính từ năm 2014 đến hết năm 2020, Việt Nam đã gửi được 4.277 du học sinh đi học các trình độ Thạc sĩ và Tiến sĩ tại 40 nước trên thế giới. Hiện, có khoảng 22.000 lưu học sinh của gần 70 nước đang học tập tại Việt Nam (các trình độ đại học, Thạc sĩ, Tiến sĩ và thực tập sinh); trong số này có khoảng 4.000 lưu học sinh nước ngoài (đạt tỉ lệ 800% so với mục tiêu của Đề án) học tập theo diện hiệp định ký kết giữa Chính phủ Việt Nam với chính phủ các nước, số còn lại đến theo chương trình trao đổi, liên kết giữa các trường). Trong giai đoạn 2015-2020, đã có khoảng 15.000 lượt giảng viên, chuyên gia, tình nguyện viên đến tham gia trao đổi học thuật, giảng dạy và nghiên cứu ngắn hạn, dài hạn tại các cơ sở giáo dục đại học và nghiên cứu của Việt Nam. Đến hết năm 2020, Việt Nam đã có 139 chương trình đào tạo được các tổ chức quốc tế có uy tín kiểm định và công nhận (đạt tỉ lệ gần 93% mục tiêu của Đề án).
Bốn trường đại học xuất sắc là: Trường Đại học Khoa học và công nghệ Hà Nội (Trường Đại học Việt - Pháp), Trường Đại học Việt - Nhật, Trường Đại học Việt - Anh và Trường Đại học Việt - Đức đã và đang hợp tác với các đối tác quốc tế triển khai các hoạt động nghiên cứu và đào tạo theo hướng tiếp cận với trình độ tiên tiến, hiện đại của khu vực và trên thế giới. Chất lượng đào tạo của các trường này có nhiều điểm vượt trội; chương trình tiên tiến được quốc tế công nhận; tính gắn kết đào tạo với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp và xu hướng phát triển của thị trường lao động quốc tế. Sinh viên có nhiều cơ hội thực tập tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc ở nước ngoài, tham gia chương trình giao lưu, trao đổi sinh viên…Việt Nam đã và đang tích cực tham gia các kỳ thi tay nghề ASEAN và kỳ thi tay nghề toàn thế giới; chủ động đóng góp ý kiến, xây dựng và hoàn thiện cơ chế nhằm và tính thiết thực của các kỳ thi quốc tế. Qua các kỳ thi, các tập đoàn, công ty đa quốc gia, các tổ chức quốc tế, chuyên gia trong nước và quốc tế đã có cơ hội cùng làm việc, cùng sáng tạo, giới thiệu và trao đổi kỹ năng, mở ra những cơ hội hợp tác về công nghệ tiên tiến, vật liệu mới, đồng thời cũng là dịp để tiếp nhận và tuyển dụng nhiều sinh viên Việt Nam vào làm việc.
Việt Nam hiện cũng đang trở thành điểm đến được nhiều sinh viên quốc tế lựa chọn, với những ưu điểm về chất lượng giáo dục liên tục được nâng lên, chi phí học tập, sinh hoạt hấp dẫn, môi trường sống an toàn. Các cơ sở giáo dục phổ thông của chúng ta hiện nay cũng đang góp phần thúc đẩy hội nhập quốc tế trong việc triển khai các chương trình giáo dục tích hợp ở mầm non và phổ thông, giúp học sinh tiếp cận chương trình quốc tế, góp phần nâng cao trình độ ngoại ngữ cho học sinh và giáo viên(2).
Các chương trình đào tạo, bồi dưỡng giảng viên đại học, cao đẳng, giáo viên trung cấp chuyên nghiệp đã được chú trọng triển khai từ trung ương đến cơ sở nhằm nâng cao chất lượng người dạy ở tất cả các cấp học và trình độ đào tạo. Theo tổng kết của Bộ Giáo dục và đào tạo, đã có gần 19.000 (đạt 67,7% so với mục tiêu của Đề án) lượt giảng viên, giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục và dạy nghề được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực; thực hiện ở trong và ngoài nước thông qua các học bổng, khóa đào tạo, tập huấn, hội nghị, hội thảo, chương trình/dự án. Tính đến ngày 01/7/2020 (ngày Luật Giáo dục năm 2019 có hiệu lực thi hành), trình độ chuẩn được đào tạo của giáo viên mầm non, tiểu học, trung học cơ sở được nâng lên: từ trình độ trung cấp lên cao đẳng (mầm non), từ trung cấp lên đại học (tiểu học), từ cao đẳng lên đại học (trung học cơ sở) theo quy định tại Điều 72 Luật Giáo dục năm 2019. Từ ngày 01/7/2020, tỉ lệ giáo viên mầm non, tiểu học, trung học cơ sở đạt chuẩn đã tăng lên rõ rệt. Về cơ bản, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục ở tất cả các cấp học đã đạt chuẩn và trên chuẩn trình độ đào tạo.
Về hoạt động xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách, nhằm triển khai có hiệu quả Đề án Hội nhập quốc về giáo dục và dạy nghề đến năm 2020, các cơ quan chủ trì tổ chức thực hiện Đề án là Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã phối hợp với các bộ, ngành có liên quan tiến hành rà soát, đề xuất bổ sung để hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các hoạt động hợp tác và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo theo hướng bảo đảm có hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đầy đủ, đồng bộ, tạo cơ sở pháp lý cho tất cả các hoạt động hợp tác và hội nhập quốc tế ở tất cả các cấp học và trình độ đào tạo. Việc thực hiện ký kết các hiệp định công nhận văn bằng, chuyển đổi tín chỉ và kỹ năng nghề giữa Việt Nam và các quốc gia khác được đẩy mạnh. Giai đoạn 2013-2016, đã có 68 thỏa thuận quốc tế và 23 điều ước quốc tế được ký kết; giai đoạn 2016-2020, Bộ Giáo dục và đào tạo đã chủ trì đàm phán, ký kết 75 thỏa thuận và điều ước quốc tế cấp Chính phủ và cấp bộ. Đặc biệt, năm học 2019-2020, Bộ Giáo dục và đào tạo đã chủ trì, ký kết được 21 văn bản hợp tác quốc tế (gồm 6 văn bản cấp Chính phủ, 15 văn bản cấp bộ) và ký kết thỏa thuận về công nhận văn bằng để thúc đẩy việc dịch chuyển sinh viên với các nước trong khu vực và trên thế giới như: Hiệp định về trường đại học Việt - Đức, Hiệp định về việc giảng dạy tiếng Anh theo chương trình hòa bình; Công hàm trao đổi về Dự án học bổng phát triển nguồn nhân lực với Nhật Bản; Hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Armenia về hợp tác trong lĩnh vực giáo dục và khoa học; Hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Latvia về hợp tác trong lĩnh vực giáo dục; Thỏa thuận giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Pháp về việc phát triển CFVG giai đoạn 2019-2023(3).
Giải pháp hội nhập quốc tế về giáo dục và đào tạo Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng kể, hoạt động hội nhập quốc tế về giáo dục và đào tạo của nước ta cần tiếp tục được đẩy mạnh hơn nữa mới đáp ứng được các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực cho đất nước. Thực tế hiện nay, cơ chế chính sách chưa có sự đột phá để có thể làm tốt hơn công tác hội nhập quốc tế. Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo phải được thực hiện xuyên suốt với lộ trình, bước đi phù hợp với điều kiện thực tế và năng lực của đất nuớc trong từng giai đoạn cụ thể. Gần đây nhất, Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng ngày 01/02/2021 đã định hướng rõ: “Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài. Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, chú trọng một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới”. Vì vậy, trong thời gian tới, để thúc đẩy và hội nhập quốc tế, góp phần tạo đột phá trong chất lượng giáo dục vào đào tạo, phát triển con người toàn diện, đáp ứng yêu cầu đào tạo công dân toàn cầu và nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đưa giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và thế giới, cần thực hiện một số giải pháp căn bản như sau:
Một là, hoàn thiện thể chế, chính sách về giáo dục và đào tạo: rà soát và hoàn thiện thể chế, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hợp tác và đầu tư với nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo; rà soát cơ chế, chính sách để thu hút tri thức, nhà khoa học, học sinh, sinh viên nước ngoài đến giảng dạy, nghiên cứu khoa học và học tập tại các cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam, các quy định về tiêu chuẩn, bằng cấp của giáo viên nước ngoài giảng dạy tại cơ sở đào tạo ngắn hạn, giáo dục phổ thông, cơ sở giáo dục đại học theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế và quy định hiện hành của Việt Nam.
Hai là, đẩy mạnh hợp tác, kiến tạo môi trường quốc tế trong giáo dục và đào tạo. Chủ động mở rộng hợp tác song phương và đa phương, trong đó ưu tiên các nước láng giềng, các nước lớn, các đối tác chiến lược, đối tác thường xuyên; thúc đẩy hợp tác với các nước có nền giáo dục chất lượng hàng đầu thế giới. Đẩy mạnh việc ký kết và triển khai hiệu quả các thỏa thuận, điều ước quốc tế, trong đó ưu tiên thực hiện các cam kết quốc tế, chương trình, dự án và các chương trình học bổng hiệp định.
Ba là, bảo đảm và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Đặc biệt là nâng cao chất lượng giáo dục đại học, tạo sự chuyển biển về chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao và hội nhập quốc tế; nâng cao chất luợng đội ngũ giảng viên; đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp sáng tạo trong các cơ sở giáo dục đại học; đổi mới quản lý, chương trình và phương pháp đào tạo theo hướng hội nhập quốc tế.Bốn là, nâng cao năng lực đội ngũ và nhận thức về hội nhập quốc tế. Tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức của giáo viên, giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục về hội nhập quốc tế trong giáo dục và đào tạo. Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng định kỳ về chuyên môn nghiệp vụ về hội nhập quốc tế cho các cơ sở giáo dục và các cơ quan quản lý giáo dục và đào tạo.
(1) Nguyễn Hiếu, Việt Nam chủ động hội nhập quốc tế về giáo dục (https://giaoducthoidai.vn/viet-nam-chu-dong-hoi-nhap-quoc- te-ve-giao-duc-post635776.html).
(2) Lê Hà, Giáo dục chủ động hội nhập và hợp tác quốc tế (https://nhandan.vn/giao-duc-chu-dong-hoi-nhap-va-nang-cao-hieu-qua- hop-tac-quoc-te-post635395.html).
Hiệu trưởng trường THPT Kim Ngọc, tỉnh Vĩnh Phúc
Các quy định của pháp luật quốc tế về phòng chống bạo lực trẻ em