• 당신(dang sin): Được dùng khi gọi vợ chồng, người yêu.
Cách xưng hô với thành viên gia đình của người Hàn Quốc
Ngoài người yêu, vợ chồng, bạn sẽ muốn tìm hiểu cách xưng hô với các thành viên trong gia đình. Ví dụ ông bà, em gái trong tiếng Hàn, chị tiếng Hàn…
Dưới đây là một số cụm từ xưng hô phổ biến nhất.
• 친할아버지(chinhal-abeoji): Ông nội.
• 외할아버지(oehal-abeoji): Ông ngoại.
• Gọi em gái trong tiếng Hàn: 여동생(yeodongsaeng)
• Gọi em trai: 남동생(namdongsaeng).
Xưng hô với các thành viên trong gia đình ở Hàn Quốc
Tổng hợp cách xưng hô trong Tiếng Hàn Thông Dụng Chi Tiết
Ngày đăng: 24/04/2024 / Ngày cập nhật: 25/06/2024 - Lượt xem: 127
Xưng hô trong tiếng Hàn cực kì quan trọng, cách xưng hô trong gia đình, với bạn bè, vợ chồng…Hoàn toàn khác nhau. Đại từ nhân xưng, ngôi thứ là những kiến thức cơ bản nhất nếu bạn đang học tiếng Hàn Quốc.
Trong bài viết dưới đây, chúng tôi sẽ chỉ bạn cách xưng hô vợ chồng, người yêu trong tiếng Hàn, cách xưng hô với các thành viên khác trong gia đình như chị gái, em gái…Cũng như ngôi thứ, đại từ nhân xưng trong tiếng Hàn.
Đại từ nhân xưng ngôi thứ 3
Nói về một người chưa xác định:
Khi sử dụng số nhiều ngôi thứ 3, chúng ta cần phân biệt ngữ cảnh, vì hình thái của nó giống ngôi thứ 1 số nhiều.
Thảo luận của nhóm Pali Chuyên Đề
Xin kính thỉnh các sư và các cô ,các bác cư sĩ ở đây giúp Phúc Kiến đc hiểu rõ vấn đề thắc mắc sau đây :
Phúc Kiến được biết là đức Phật thuyết pháp bằng ngôn ngữ Magadhi (của xứ Magadha) chứ không phải là ngôn ngữ Pali ,vậy điều đó có đúng không ạ? Và nếu đúng như vậy thì tại sao kinh điển lại ko kết tập bằng ngôn ngữ Magadhii mà lại kết tập bằng ngôn ngữ Pali . Theo Phúc Kiến được biết thì ngôn ngữ Pali thuộc hệ ngôn ngữ Ấn-Aryan ,nó khác hẳn hoàn toàn ngôn ngữ Magadha và đc sử dụng bởi một bộ tộc ít người còn tồn tại đến bây giờ ở Phía Bác xứ Ấn Độ
_ Cuối cùng Phúc Kiến xin đc cám ơn các sư và cô bác đã quan tâm đến thắc mắc của Phúc Kiến. Những thông tin ở trên Phúc Ki én cũng chỉ đọc lại từ những nguồn tài liệu và Phúc Kiến ko còn nhớ những nguồn tài liệu đó tên gì nên ko thể dẫn chứng cho các sư và cô bác, nếu có gì sai sót mong càc sư và cô bác cư sĩ chỉ bảo thêm cho. Xin cám ơn
Vo Trong Phi Đóng góp vài link tiếng Anh gởi bạn. (Mình đang bận nên chưa có thời gian để tìm nhiều hơn):
http://www.britannica.com/EBchecked/topic/439818/Pali-language
http://www.palitext.com/subpages/lan_lite.htm
http://buddhamind.info/leftside/teachings/ti-pi3.htm
Pali language : Introduction — Britannica Online Encyclopedia
sacred language of the Theravāda Buddhist canon, a Middle Indo-Aryan language of north Indian origin. On the whole, Pāli seems closely related to the Old Indo-Aryan Vedic and Sanskrit dialects but is…
Phamj Ngocj Taan Phật thuyết pháp bằng nhiều thứ tiếng mà
Huỳnh Phúc Kiến Chú gì đó ơi ,chú có thể giúp con dịch ra tiếng Việt bài văn trong trang web thứ hai đc ko,con xin cam on chu.
Vo Trong Phi Huỳnh Phúc Kiến nhờ các thành viên khác dịch giúp đi. Lúc này đang rất bận.
Tính Nguyễn Cứ kiên nhẫn đã, không cần phải vội! Cám ơn bạn đã thay mặt mọi người đưa ra câu hỏi lớn! Bấm like ở đây nghĩa là mọi người hoan hỷ, đồng thắc mắc với bạn; để “núp lùm” chờ các bậc thượng thủ khác vào trả lời trước; để nói với bạn rằng: “hãy đợi đấy”! hi hi…
Huỳnh Phúc Kiến Tại cái này nó liên quan đến niềm tin của em nên em mới lên đây hỏi cho rõ ,vì em mắc bệnh hay hoài nghi , hết thuốc chữa rồi ,từ khi đọc đc những thông tin này trên mạng thì mỗi l ần niệm Ân Đức Phật thì nghi ngờ nó lại nổi lên ,chiếm hết tâm trí làm em rất là nhức đầu
Hạnh Trương Cái này phải thỉnh anh Binh Anson giải đáp rồi 🙂
Hiếu Nguyễn Vụ này mình tính đặt câu hỏi lâu rồi. Nhưng sau đó mình cũng phần nào tự tìm được câu trả lời cho riêng mình.
Mình xin gửi tặng bạn Huỳnh Phúc Kiến, và các đạo hữu trên Pali chuyên đề đường link tới luận án tiến sỹ của HT. Thích Minh Châu (người đã dịch những bộ kinh lớn trong Tam Tạng Pali sang tiếng Việt).
http://www.budsas.org/uni/u-sosanh-trung/sosanh00.htm
Dưới đây là 1 trích đoạn hay, (HT. TMC) chỉ ra rằng không phải bản P (Pali) lúc nào cũng là chuẩn nhất:
Điểm qua vai trò của các nhân vật trong 98 kinh được so sánh, ta thấy rõ ràng có một nguồn gốc chung cho cả hai bản C và P, từ đó những nhà kết tập chọn những tài liệu và dữ kiện cho bản kinh của họ, nhưng không thiếu những dị biệt về chi tiết, và điều này hoặc do sự chọn lựa của các nhà kết tập hoặc do đặc điểm của các bộ phái mà họ tiêu biểu.
Như về phương diện nhân vật, trong NC15, kinh C 115, Mật hoàn du,ï nói chính Phật dẫn ví dụ về viên mật; trong kinh P18, nói Tôn giả A Nan dẫn. Trong NC 10, kinh C 99, Khổ ấm, kể một số đông tín đồ ngoại đạo đến gặp các Tỳ-kheo trong giảng đường khi họ đang tụ hội sau bữa ăn trưa. Nhưng trong P13, Đại kinh khổ uẩn, các Tỳ-kheo sau khi vào thành Xá Vệ khất thực, thấy còn sớm nên đi đến trú xứ của các du sĩ và cuộc đàm thoại bắt đầu. Trong NC 26, C184 nói Đại Ca-chiên-diên (Ta-chia-chan-yen) trả lời Tỳ-kheo thiện xảo về luận thuyết (Abhidharma) (sẽ làm sáng chói khu rừng), nhưng theo kinh P32, đó là câu trả lời của Đại Mục-kiền-liên (Mahàmoggallàna) ; trong khi ở kinh C, Đại Mục-kiền-liên trả lời là Tỳ-kheo thiện xảo về thần thông. Như vậy bản C ở đây trung thực và đáng tin cậy hơn, vì Đại Ca-chiên-diên (Mahàkaccàna) nổi tiếng là chuyên môn về luận nghị, Mục-kiền-liên nổi tiếng là chuyên môn về thần thông. Chúng ta trích dẫn ở đây một nhận xét của tiến sĩ Anesaki(71): “Trong kinh P, Gosinga(72), chúng ta thấy nói đến sáu đệ tử của đức Phật; trong bản C tương đương có thêm một người nữa là Ca-chiên-diên (Katyàyana) . Trong cuộc đàm luận giữa những Tỳ-kheo ấy, Mục-kiền-liên ở bản P đóng vai trò một đệ tử tinh thông về các nguyên lý của pháp và phân tích pháp. Trong bản C, vai trò này do Ca-chiên-diên đóng, và Mục-kiền-liên (Maudgalyàyana) là một người nổi tiếng về thần thông. Khi so sánh điều này với những tài năng của các đệ tử như được nói trong kinh Tăng chi bộ (Anguttara) I,14, chúng ta có thể thấy rằng bản C phù hợp với truyền thống chung. Vì như trong kinh Tăng chi I nói, Mục-kiền-liên là người thần thông (iddhimantànam) đệ nhất, Ca-chiên-diên (Kaccàna) là ‘người thiện xảo về nói pháp và phân tích ý nghĩa’ (sankhittena bhàsitassa vitthàrena attham vibhajantànam). Kinh Tăng-nhất-A-hàm (Ekottara) C cũng nói như vậy. Có thể sự khác nhau này chứng tỏ rằng không phải bản P luôn luôn thuần túy và nguyên chất hơn bản C.”
A.M.R.H. : “Đại thừa liên hệ với Tiểu thừa”, N. Dutt.C : Chữ Hán.C.A.P.N…See More
Hiếu Nguyễn Lưu ý thêm: nhưng mà khi không có được vàng mười, thì vàng pha một tý vẫn ngon chán!
Kusalaguṇa Thiện Đức Có nhớ một lần ở đâu đó Đ Đ Indacanda đã thảo luận đề tài này. Để khỏi mất thời gian researchi, thỉnh Đ Đ Indacanda trích dẫn lại để bà con mở rông thêm quan kiến ạ.
– Chúng ta không thực sự biết ĐPhật đã thuyết giảng bằng ngôn ngữ nào, vì ở India có rất nhiều ngôn ngữ hay phương ngữ. Nhiều giả thuyết cho rằng ĐP nói chủ yếu là bằng ngôn ngữ Magandhi, nhưng chính điều này cũng chưa được chứng minh.
– Khi ngài Mahinda sang truyền giáo ở Sri Lanka, ngài dùng ngôn ngữ nào cũng đang trong vòng tranh luận. Chúng ta biết rằng trưởng lão Mahinda là đệ tử ruột của ngài Moggalaputtra, người chủ tọa của kỳ kiết tập Kinh điển lần thứ ba (tại Ấn độ vào Thế kỷ thứ ba BC), thuộc bộ phái Vibhajja vada (không hẳn là Theravada -trưởng lão bộ). Vì nay Phật giáo Theravada trên toàn thế giới bắt nguồn từ Sri Lanka, đặc biệt là phái Maha Vihara ở cố đô Anuradhapura vốn rất mạnh vào nhiều thế kỷ sau công nguyên. Kinh điển của bộ phái này được kiết tập và ghi lại theo trí nhớ của các vị chuyên tụng vào nửa đầu thế kỷ thứ nhât BC (1st BC), nhưng cũng không phải bằng ngôn ngữ Pali, mà bằng ngôn ngữ của người Sinhale (người Sri Lanka bây giờ), vốn là một bộ tộc di cư đến đảo Lanka từ miền Bắc India, họ nói họ vốn cùng dòng dõi Sakya của ĐPhật. (Hãy tham khảo Mahavamsa & Dipa vamsa, hình như sư Indacanda đã dịch và in rồi).
– Mãi đến thế kỷ thứ năm sau Tây lịch, kinh điển (Suttanta & Vinaya) và sớ giải (atthakatha) mới được dich qua tiếng Pali bởi luận sư Buddhaghosa mà cho đến nay cũng chưa xác định được là ngài Buddhaghasa vốn sinh trưởng và xuất gia ở đâu trước khi ngài đến đảo Lanka học với các vị Trưởng lão ở Maha Vihara tại Anuradhapura. Và sau đó vị luận sư này đi về đâu cũng không rõ hành tích, có nhiều giả thuyết nói rằng ngài đến Suvannabhumi (xứ sở của người Mon), nay là phần hạ của Thai Lan và Myanmar.
Karmalaw Net ” Chúng ta không thực sự biết ĐPhật đã thuyết giảng bằng ngôn ngữ nào, vì ở India có rất nhiều ngôn ngữ h…ay phương ngữ. Nhiều giả thuyết cho rằng ĐP nói chủ yếu là bằng ngôn ngữ Magandhi, nhưng chính điều này cũng chưa được chứng minh.
– Khi ngài Mahinda sang truyền giáo ở Sri Lanka, ngài dùng ngôn ngữ nào cũng đang trong vòng tranh luận. Chúng ta biết rằng trưởng lão Mahinda là đệ tử ruột của ngài Moggalaputtra, người chủ tọa của kỳ kiết tập Kinh điển lần thứ ba (tại Ấn độ vào Thế kỷ thứ ba BC), thuộc bộ phái Vibhajja vada (không hẳn là Theravada -trưởng lão bộ). Vì nay Phật giáo Theravada trên toàn thế giới bắt nguồn từ Sri Lanka, đặc biệt là phái Maha Vihara ở cố đô Anuradhapura vốn rất mạnh vào nhiều thế kỷ sau công nguyên. Kinh điển của bộ phái này được kiết tập và ghi lại theo trí nhớ của các vị chuyên tụng vào nửa đầu thế kỷ thứ nhât BC (1st BC), nhưng cũng không phải bằng ngôn ngữ Pali, mà bằng ngôn ngữ của người Sinhale (người Sri Lanka bây giờ), vốn là một bộ tộc di cư đến đảo Lanka từ miền Bắc India, họ nói họ vốn cùng dòng dõi Sakya của ĐPhật. (Hãy tham khảo Mahavamsa & Dipa vamsa, hình như sư Indacanda đã dịch và in rồi).
– Mãi đến thế kỷ thứ năm sau Tây lịch, kinh điển (Suttanta & Vinaya) và sớ giải (atthakatha) mới được dich qua tiếng Pali bởi luận sư Buddhaghosa mà cho đến nay cũng chưa xác định được là ngài Buddhaghasa vốn sinh trưởng và xuất gia ở đâu trước khi ngài đến đảo Lanka học với các vị Trưởng lão ở Maha Vihara tại Anuradhapura. Và sau đó vị luận sư này đi về đâu cũng không rõ hành tích, có nhiều giả thuyết nói rằng ngài đến Suvannabhumi (xứ sở của người Mon), nay là phần hạ của Thai Lan và Myanmar.” —> những điều rối rắm này càng làm sáng tỏ một vài điều khác nữa! Cảm ơn sư cô Nguyen Huong, cảm ơn chú Phạm Doãn và Pali Chuyên Đề! Vậy là những suy luận của KN có căn cứ.
Ở đây có một trao đổi khá hay về đề tài này, mọi người có thể tham khảo thêm :
http://pali.nibbanam.com/kosalan.htm
4 Wilhelm Geiger. Pāli Literature & Language. Oriental Books Reprint
Hạnh Trương ”With these caveats, I have come to the opinion that, if today the Buddha heard Sri Lankan monks (who have the best pronunciation) reciting Pāli, he would recognise at least some of his own words in a slightly different accent. That the Buddha’s actual words can resound to us after 2,400 years is perhaps a romantic notion, but that does not prevent it being the truth.”:D
Pali là gì? Là tên một ngôn ngữ, nó bắt nguồn từ chừ Palibhasa có nghĩa là ngôn ngữ (bhasa) văn bản (pali). Nếu dịch đầy đủ hơn có thể là “văn bản cho việc đọc tụng”. Văn bản là một thể loại đầu tiên của kinh điển Phật giáo được duy trì bởi một truyền thống Phật giáo đặc biệt, điển hình như Phật giáo Theravada. Các văn bản này được các nhà học giả Phật giáo thời kỳ sau này sưu tập lại và phân chia thành Tipitaka (Tam Tạng Kinh Điển). Chúng là cũng được gọi là “Buddhavacana” (những lời dạy của đức Phật). Bởi vì đa số những lời dạy ở trong Tipitaka điều do chính đức Phật thuyết ra. Ngoài ra, chúng còn có một tên gọi khác nữa là “Kinh điển Pali”.
Vậy Pali là loại ngôn ngữ gì? Và nguồn gốc của thuật ngữ Pali xuất phát từ đầu?
Theo truyền thống chú giải các kinh điển Pali được biết như là ngôn ngữ Magadhi thuộc xứ sở Magadha. Magadha là một tên cổ của một vùng đông – bắc. Đức Phật đã dành thời gian tuổi già của mình ở đây sống trong và gần xứ Magadha và Pali là tên ngôn ngữ Magadhi bởi vì mọi người tin rằng Pali là ngôn ngữ mà Đức Phật đã sử dụng để thuyết giảng giáo Pháp của ngài, do đó nó phải được nói xunh quanh ngài. Nhà chú giải kinh điển Budhaghosa (sống vào khoảng thế kỷ thứ 5 Tây lịch) đã viết rằng nếu một đứa trẻ không được nghe một ngôn ngữ nào, khi lớn lên nó sẽ tự động nói tiếng Magadhi (Pali) và tiếng Màgadhi là một loại ngôn ngữ gốc (như vậy, có thể suy ra rằng tất cả các loại ngôn ngữ điều xuất phát từ đó). Nhưng các văn bản trước thời kỳ của nhà chú giải kinh điển Budhaghosa không hề đề cập việc đó. Đặc biệt trong kinh điển Pali, thuật ngữ “Pali” cũng chưa hề xuất hiện lần nào. Các bản này chỉ đề cập đến việc đức Phật sử dụng ngôn ngữ bình dân khi ngài giảng giải giáo pháp, ngoài ra không hề nhắc đến ngôn ngữ Pali. Ngoài ra, các biên niên sử cổ đại của Sri Lanka (Tích Lan) cũng chỉ đề cập lại rằng kinh điển Theravada được viết thành văn bản tại một tự viện thuộc trung tâm của Sri Lanka vào khoảng thế kỷ thứ nhất trước dương lịch trong suốt triều đại của vua Vattagamani Abhaya. Ngôn ngữ kinh điển này tiếp tục bị tác động bởi các nhà chú giải, nhà ngữ pháp và một số ngôn ngữ đia phương nơi mà Phật giáo Theravada có mặt hơn vài thề kỷ. Lối truyền kinh điển Pali bằng khẩu ngôn vẩn còn tiếp tục kéo dài một vài thế kỷ sau khi đức Phật Niết – bàn, thì sau đó kinh điển được duy trình lần đầu bằng chữ viết.
Còn theo các học giả Pali hiên đại thì cho rằng Pali thuộc nhóm ngôn ngữ Ấn – Hằng thuộc thời kỳ trung đại. Nhóm ngôn ngữ này cũng được gọi là Prakrit. Cả hai thuật ngữ “Pali” và “Prakrit” điều có nguồn từ Sanskrit – các nhà ngữ văn học xếp loại ngôn ngữ Sanskrit vào nhóm ngôn ngữ Ấn – Hằng thời kỳ cổ đại. Sanskrit thời kỳ cổ đại này được chia thành Sankrit Cổ Điển (Classical Sanskrit)- loại ngôn ngữ này được hệ thống lại bởi nhà ngữ pháp Panini (vào khoảng thế thứ 4, trước công Tây lịch) và Sanskrit Vệ Đà (Vedic Sanskrit) – ngôn ngữ này có trước Sanskrit Cổ Điển. Sanskrit là một nhánh của hệ ngôn ngữ Ấn – Âu, xuất hiên sớm nhất các đây hơn ba ngàn năm trước và được phát triển về phía đông, trải dài từ vùng đất Anatolia (Thổ Nhỉ Kỳ ngày này) đến bình nguyên sông Ấn (Indus) và sông Hằng (Ganges). Mặt khác, hệ ngôn ngữ Ân – Âu cũng là tổ tiên của nhiều loại ngôn ngữ hiện đại ngày này. Từ tiếng Sihala và tiếng Bengali ở vùng Đông Nam cho đến tiếng Anh và tiếng Celtic (Xen –tơ) ở vùng Tây –Bắc và thậm chí kể cả nhiều loại ngôn ngữ đã chết khác nữa. Như vậy có thể nói rằng Sanskrit là một trong những loại ngôn ngữ thuộc hệ Ấn Âu phát triển sớm nhất so với các ngôn ngữ khác. Nhưng điều này không có nghĩa rằng Sanskrit là ngôn ngữ phát triển sớm nhất. Ở đây chúng ta cũng cần phân biệt giữa thể loại nói và viết trong ngôn ngữ. Ví các bản văn cổ Sanskrit, như Rgveda có lẽ đã tồn hàng ngàn năm trước công nguyên; nhưng hơn môt ngàn năm không được viết xuống thành các văn bản. Mẫu chữ viết của người Ấn Độ xuất hiện sớm có lẽ là các ký tự được khắc trên những trụ đá của Vua A- dục (Asoka). Mẫu chữ này có lẽ được dùng được ở vùng Tây – Bắc của Ấn Độ (ngày này là Pakistan/ Afghanistan). Nhưng chẳng bảo mẫu chữ này đã biến mất, không có hậu duệ của nó.. Các văn băn trên của vua Asoka là Parkit, chứ không phải là Sanskit. Như vây có thể nói rằng các văn bản Sanskrit lẫn Prakrit bắt đầu được viết xuống vào thế kỷ thứ 2 trước công nguyên, mặc dù không có bằng chứng nào cho thấy các bản văn được viết của thời kỳ này tồn tại. (còn tiếp)
(Bài viết này mang tính chất comment, nên không có footnote. Mong các sư, các chú, các bác …thông cảm. Và có điều gì sai sót, thiếu tính logic cũng mong các sư, các bác, các chú…chỉ dạy. )
– A Pali Grammar – Wilhelm Geiger
– Pali Literature and Language – Wilhelm Geiger
– A new Course in Reading Pali – James W. Gair, W. S. Karunatillake
– Ngữ Pháp Tiếng Phạn – G.S. Lê Mạnh Thát.
Karmalaw Net Like thì có like nhưng bài viết trên còn nhiều chủ quan.
Phan Minh Nguyet Cảm ơn bạn Phúc Kiến đã đưa ra 1 câu hỏi rất hay. Những vấn đề thuộc về lịch sử thường khó tìm được dữ liệu và chứng cứ chính xác. Đối với những vấn đề này tôi thường tham khảo wikipedia, hy vọng có được 1 cái nhìn tương đối khách quan nhất. Tôi mới tìm hiểu qua và thấy wikipedia cũng nói những điểm tương đồng như sư cô Nguyên Hương. Cảm ơn bác Phạm Doãn đã chia sẻ.
Tài liệu trích từ trang http://budsas.blogspot.com.au
Source: http://www.dhammawheel.com/viewtopic.php?f=29&t=4630
– What language did the Buddha speak? Some sources say Sanskrit and some Magadhi. Now I wonder is there any evidence?
Answer by Kare Albert Lie (Norway, 11 June 2010):
– He did not speak Sanskrit. At the Buddhas time different dialects were spoken in Northern India. They were probably not very different from each other, and not very different from Sanskrit. Pali is a standardization from these dialects (we find traces of different dialects in Pali), a couple of hundred years after Buddha, and the Pali texts therefore probably are as close to the Buddha’s own language as we can reasonably expect to get.
The term Magadhi is ambiguous. It means “from Magadha”, and so we have to ask what area was called Magadha, and at what time.
At the Buddha’s time Magadha was one of several states in Northern India. We do not know if, or how much, the dialect in Magadha at that time differed from the neighboring dialects. As far as I know, we have no documentation for the use of Magadhi as a linguistic term at that time.
Magadha was a rather aggressive kingdom, and after the Buddha’s time it conquered other states and expanded until it covered most of India at the time of Asoka. Asoka was king of Magadha, that is, he was king of “greater Magadha” – most of India. At his time Buddhism was exported to Sri Lanka, and so were the Pali texts. But Sri Lankan commentators did not call the language “Pali”. They called it Magadhi, which is quite logical, since the texts had been brought to them from Magadha, from “greater Magadha”, that is – from the Indian mainland. Therefore the term Magadhi for the Pali language as used in the commentaries, probably mean nothing more than “Indian”.
Later, the Asokan dynasty fell from power, and the name Magadha was again restricted to the area, the province that had been the original state of Magadha at the Buddha’s time. During the centuries the dialects in different parts of India had diverged (as is normal for languages), and the dialect of Magadha had acquired its own distinctive features. Now came the time of the great Sanskrit dramas, and the Sanskrit authors consciously used different dialects and cultivated these as written sociolects, which were called Prakrit. Thus there arose a Prakrit language/dialect called Magadhi.
There seems to have been quite a lot of confusion due to these different usages of the term “Magadhi”.
“Magadhi 1″ – whatever dialect was spoken in Magadha at the Buddha’s time. We do not know to what degree, if at all, this was any different from the language spoken over most of Northern India.
“Magadhi 2″ – the language of the texts from “greater Magadha” that arrived in Sri Lanka at the time of Asoka. This “Magadhi 2″ is the same as we today call Pali.
“Magadhi 3″ – the later dialect of the province of Magadha that became a Prakrit language in the Middle Ages. No special connection to Buddhism or the Pali texts.
Nguồn: Tỳ-khưu Indacanda, http://www.paliviet.info
Từ Pali không tìm thấy ở Tam Tạng.
Ở Chú Giải, khi đề cập đến việc học tập của vị tỳ khưu thì Ngài Buddhaghosa có ghi là vị ấy cần học tập “pāliñca atthakathañca,” nghĩa là học “pali và atthakathā.” Từ atthakathā có nghĩa là Chú Giải, nhờ đó có thể biết được rằng từ Pali có nghĩa là Chánh Tạng, là những gì được chứa đựng trong Tam Tạng.
Và ngôn ngữ ghi lại Tam Tạng thì Ngài Buddhaghosa ghi rằng Māgadhabhāsā, nghĩa là ngôn ngữ của xứ Magadha (Ma Kiệt Đà). Việc gọi Pali là tên của ngôn ngữ ghi lại lời dạy của đức Phật có thể đã được học giả người Pháp Simon de la Loubère sử dụng đầu tiên trong tác phẩm Du Royaume de Siam ấn hành năm 1691; tài liệu này đã được dịch sang tiếng Anh năm 1693 (Juo-Hsüeh Shih Bhikkhunī, Controversies over Buddhist Nuns, Oxford: The Pali Text Society, 2000, trang 3). Do sự ngộ nhận ban đầu đó, ngày nay nói đến từ Pali người ta liên tưởng đến ngôn ngữ Pali, mà hầu như không biết đến ý nghĩa ban đầu của nó.
Như vậy tùy theo ngữ cảnh, Pali có thể hiểu là:
– Các lời dạy nguyên thủy, chánh truyền, của đức Phật.
– Ngôn ngữ đã được sử dụng để ghi lại các lời dạy ấy.
DR. Binh Anson /Pali Chuyên Đề:
Hiện nay, các nhà học giả PG vẫn chưa xác quyết Đức Phật nói tiếng gì, nhưng đa số đều đồng ý rằng Ngài và các vị đệ tử thời đó không nói tiếng Pali. Pali là một loại văn ngữ (textual language) — không phải là ngôn ngữ (spoken language) – dùng để ghi các kinh điển Theravada.
Theo Hội Kinh Văn Pali (Pali Text Society,
), Pali là một dạng phương ngữ vùng Trung Ấn Arya, tạo ra do pha trộn và đồng nhất hóa các phương ngữ (dialects) mà trước đó đã được dùng để ghi nhớ và truyền khẫu các lời dạy của Đức Phật.
The Pāli Language and Literature
Pāli is the name given to the language of the texts of Theravāda Buddhism, although the commentarial tradition of the Theravādins states that the language of the canon is Māgadhī, the language supposedly spoken by the Buddha Gotama. The term Pāli originally referred to a canonical text or passage rather than to a language and its current use is based on a misunderstanding which occurred several centuries ago. The language of the Theravādin canon is a version of a dialect of Middle Indo-Āryan, not Māgadhī, created by the homogenisation of the dialects in which the teachings of the Buddha were orally recorded and transmitted. This became necessary as Buddhism was transmitted far beyond the area of its origin and as the Buddhist monastic order codified his teachings.
The tradition recorded in the ancient Sinhalese chronicles states that the Theravādin canon was written down in the first century B.C.E. The language of the canon continued to be influenced by commentators and grammarians and by the native languages of the countries in which Theravāda Buddhism became established over many centuries. The oral transmission of the Pāli canon continued for several centuries after the death of the Buddha, even after the texts were first preserved in writing. No single script was ever developed for the language of the canon; scribes used the scripts of their native languages to transcribe the texts. Although monasteries in South India are known to have been important centres of Buddhist learning in the early part of this millennium, no manuscripts from anywhere in India, except for one in Nepal have survived. The majority of the manuscripts available to scholars since the PTS began can be dated to the 18th or 19th centuries C.E. and the textual traditions of the different Buddhist countries represented by these manuscripts show much evidence of interweaving. The pattern of recitation and validation of texts by councils of monks has continued into the 20th century.
The main division of the Pāli canon as it exists today is threefold, although the Pāli commentarial tradition refers to several different ways of classification. The three divisions are known as piṭakas and the canon itself as the Tipiṭaka; the significance of the term piṭaka, literally “basket”, is not clear. The text of the canon is divided, according to this system, into Vinaya (monastic rules), Suttas (discourses) and Abhidhamma (analysis of the teaching). The PTS edition of the Tipiṭaka contains fifty-seven books (including indexes), and it cannot therefore be considered to be a homogenous entity, comparable to the Christian Bible or Muslim Koran. Although Buddhists refer to the Tipiṭaka as Buddha-vacana, “the word of the Buddha”, there are texts within the canon either attributed to specific monks or related to an event post-dating the time of the Buddha or that can be shown to have been composed after that time. The first four nikāyas (collections) of the Sutta-piṭaka contain sermons in which the basic doctrines of the Buddha’s teaching are expounded either briefly or in detail.
The early activities of the Society centred around making the books of the Tipiṭaka available to scholars. As access to printed editions and manuscripts has improved, scholars have begun to produce truly critical editions and re-establish lost readings. While there is much work still needed on the canon, its commentaries and subcommentaries, the Society is also beginning to encourage work on a wider range of Pāli texts, including those composed in Southeast Asia.
Hình ảnh trích xuất từ đoạn video lan truyền trên mạng - Ảnh: cắt từ video
"Thật đáng tiếc khi một phụ nữ nhập cư theo diện kết hôn người Việt trở thành nạn nhân trong một vụ bạo hành gia đình. Tôi cam kết tiến hành điều tra chi tiết sự việc và phục hồi sức khỏe cho nạn nhân" - lãnh đạo Cảnh sát quốc gia Hàn Quốc nói.
Theo Hãng tin Yonhap (Hàn Quốc), trong cuộc hội đàm với Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm tại thủ đô Seoul ngày 8-7, ông Min Gap Ryong, lãnh đạo Cơ quan cảnh sát quốc gia Hàn Quốc, cho biết ông rất tiếc về sự việc đã xảy ra và cam kết sẽ cho điều tra làm rõ sự việc.
Ông Min đã nhắc tới vụ bạo hành này ngay trong cuộc gặp đầu tiên với Bộ trưởng Tô Lâm tại Seoul ngày 8-7.
"Thật đáng tiếc khi một phụ nữ nhập cư theo diện kết hôn người Việt trở thành nạn nhân trong một vụ bạo hành gia đình. Tôi cam kết tiến hành điều tra chi tiết sự việc và phục hồi sức khỏe cho nạn nhân" - ông Min Gap Ryong nói.
Cũng theo ông Min, nhà chức trách Hàn Quốc đã bắt khẩn cấp người chồng vũ phu xuất hiện trong đoạn video.
Người vợ đáng thương đã được đưa vào viện chăm sóc. Trang The Standard (Hong Kong) dẫn nguồn tin bệnh viện cho biết với những thương tích của người vợ sau khi bị đấm, đá liên tục 3 tiếng đồng hồ, thậm chí còn bị người chồng dùng chai rượu soju nện, cô sẽ phải mất ít nhất 4 tuần để hồi phục sức khỏe.
Theo truyền thông Hàn Quốc, cảnh sát phải bắt giữ khẩn cấp người chồng vũ phu vì nghi ngờ anh này đã gây thương tích nặng cho vợ và vi phạm luật bảo vệ trẻ em.
Lý do anh chồng giải thích cho hành động vũ phu là vì người vợ không nói tốt tiếng Hàn. Sự việc chỉ được mọi người biết sau khi một người bạn của cô vợ trình báo vụ việc với cảnh sát và đoạn video ghi lại cảnh bạo hành dài 2 phút 33 giây được đưa lên mạng.
Trong đoạn video gây sốc trên, người chồng 36 tuổi đã thượng cẳng chân hạ cẳng tay tàn tệ suốt 3 tiếng đồng hồ với người vợ Việt 30 tuổi ngay trước mặt đứa con trai 2 tuổi của họ. Sự việc xảy ra ngày 4-7 tại nhà của họ ở Yeongam, tỉnh Nam Jeolla.
Cảnh sát Hàn Quốc cho biết người phụ nữ Việt bị đánh đập trong video bắt đầu có quan hệ tình cảm với anh chồng hiện nay từ 3 năm trước, nhưng trở về Việt Nam sinh con. Hai vợ chồng vừa đoàn tụ tháng trước tại tỉnh Nam Jeolla. Tuy nhiên những người xung quanh cho biết anh chồng thường xuyên mắng chửi vợ sau khi uống rượu, nhiếc móc khả năng nói tiếng Hàn của cô.
4/10 cô dâu nước ngoài bị bạo hành
Tình trạng bạo lực gia đình, đặc biệt là bạo hành với những người phụ nữ nước ngoài tới định cư tại Hàn Quốc sau khi kết hôn, cho tới nay đã nổi lên như một vấn đề xã hội nhức nhối cần được giải quyết càng sớm càng tốt.
Theo một báo cáo năm 2018 của Ủy ban nhân quyền quốc gia (Hàn Quốc), có tới 4/10 phụ nữ nhập cư theo diện kết hôn ở nước này đã trở thành nạn nhân của bạo lực gia đình, chủ yếu bị những người chồng Hàn Quốc đánh đập.
Cũng theo số liệu của ủy ban này, trong khoảng 10 năm qua, số phụ nữ nước ngoài kết hôn với đàn ông Hàn Quốc đã tăng ổn định. Số cuộc hôn nhân xuyên biên giới chiếm từ 7-11% trong tổng số các cuộc hôn nhân mỗi năm tại Hàn Quốc.
Những phụ nữ nước ngoài lấy chồng Hàn Quốc chủ yếu đến từ các nước như Việt Nam, Campuchia và các nước Đông Nam Á khác. Ngoài ra cũng có phụ nữ Trung Quốc, Uzbekistan...
Truyền thông Hàn Quốc cho rằng việc những người vợ nước ngoài không được bảo vệ chính đáng là một điều đáng hổ thẹn của đất nước. Ai cũng hiểu, hầu hết những người phụ nữ đó không có ai khác để trông cậy ngoài chồng và những người họ hàng trong cuộc sống tha hương biệt xứ.
Thống kê của trang Korea Times cho biết hiện có khoảng 2,3 triệu người nước ngoài đang sống tại Hàn Quốc. Do tỉ suất sinh tiếp tục giảm dần theo năm (Hàn Quốc là một trong những nước có tỉ suất sinh thấp nhất thế giới), trong khi nhu cầu lao động nước ngoài ngày một tăng, tất yếu số phụ nữ nhập cư theo diện kết hôn tại Hàn Quốc sẽ ngày càng đông hơn, cùng với việc gia tăng các cuộc hôn nhân liên chủng tộc.
Trang The Standard (Hong Kong) dẫn thông tin từ Đại sứ quán Hàn Quốc tại Hà Nội cho biết tới nay Việt Nam đã vượt qua Trung Quốc, trở thành nước có tổng số cô dâu tại nước họ lớn nhất. Trong vài năm qua, trung bình mỗi năm có khoảng 6.000 phụ nữ Việt Nam lấy chồng Hàn Quốc.
Visa vợ chồng Úc tạm trú 309/820 cho phép bạn tạm trú tại Úc trong thời gian 2 năm. Sau 2 năm, khi mối quan hệ giữa bạn và người bảo lãnh vẫn còn tiếp diễn thì bạn sẽ được chuyển sang thường trú. Trong thời gian ở Úc, bạn có quyền làm việc, học tập, sinh sống tại Úc và có thể được hưởng bảo hiểm sức khỏe Medicare.
Nếu người bảo lãnh mất hoặc bạn bị bạo hành thi có thể bạn sẽ được cấp thường trú trước thời hạn 2 năm.
Nếu sống bên ngoài nước Úc, bạn phải nộp đơn xin Visa 309. Sau khi được cấp Visa 309, bạn sẽ được đến Úc đoàn tụ với người bảo lãnh của mình.
Nếu sống tại Úc, để được sinh sống hợp pháp với người bảo lãnh tại Úc, bạn phải nộp đơn xin Visa 820. Trong khi đó, bạn có thể sống, làm việc tại Úc và được hưởng chế độ Medicare và các lợi ích bảo hiểm xã hội nhất định.
Sau hai năm sau được cấp Visa 309, nếu mối quan hệ giữa bạn và người bảo lãnh vẫn tiếp diễn, bạn sẽ được cấp Visa vợ chồng Úc thường trú 100.
Nếu hai năm sau khi bạn được cấp Visa 820, mối quan hệ giữa hai bên vẫn tiếp diễn, bạn sẽ được cấp Visa úc thường trú 801
Cần đặc biệt lưu ý là: Visa 309 và Visa 100 hoặc Visa 820 và Visa 801 được nộp cùng một lúc tại thời điểm nộp hồ sơ xin Visa 309 hoặc 820.
Giấy phép xuất bản số 110/GP - BTTTT cấp ngày 24.3.2020 © 2003-2024 Bản quyền thuộc về Báo Thanh Niên. Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản.
Hiếm có nhân vật phụ nào lại làm khán giả khắc khoải, xót xa như Ngô Sính của Hà Nhuận Đông. Chỉ xuất hiện trong khoảng 20 tập đầu, nhưng cái tình mà Ngô Sính bộc lộ đã làm Năm ấy hoa nở trăng vừa tròn có thêm một điểm xem khác lạ. Ngô Sính không phải nam chính trong cuộc đời Châu Doanh (Tôn Lệ), chàng chỉ là một kẻ đi ngang và làm xao động tâm hồn nàng. Chàng khiến nàng nhớ, nàng thương, nàng rơi nước mắt và vấn vương suốt 10 năm đằng đẵng.
Chuyện tình của Châu Doanh - Ngô Sính trong nửa đầu bộ phim khiến khán giả cứ khắc khoải, xót thương.
Nhưng tìm kiếm bóng hình Ngô Sính trong chiều dài Năm ấy hoa nở trăng vừa tròn, khán giả cứ cảm thấy nặng nề không thoát được. Phải chi chàng trai đó không yêu Châu Doanh sâu nặng, và phải chi cái chết của chàng đến chậm rãi hơn thì cả cuộc đời này, Châu Doanh cũng đã bớt khổ sở. Thương Ngô Sính bao nhiêu thì lại xót cho Châu Doanh chừng ấy. Vậy mới có nhiều lúc, khán giả đã phải trăn trở rằng tình cảm giữa Châu Doanh - Ngô Sính là quan hệ vợ chồng sâu nặng hay phút chốc chỉ là một mối nghiệt duyên!
5 lượng bạc và 1 chiếc kiệu hoa vội vã
Châu Doanh đã gặp Ngô Sính vào thưở xuân thì đẹp đẽ nhất đời người con gái. Khi ấy, nàng còn theo cha đi khắp muôn nơi để hành nghề sơn đông mãi võ. Trong mắt Châu Doanh, Ngô Sính luôn là vị thiếu gia hiền lành, lương thiện. Dẫu bị Châu Doanh lừa mất 5 lượng bạc, chàng vẫn chẳng biết gì. Bởi, với Ngô Sính thì ai cũng là người tốt cả. Chàng luôn dùng tấm lòng bác ái của mình để hành xử. Thế nên cái 5 lượng bạc ấy mãi đeo bám Châu Doanh, khiến nàng cứ nghĩ đến là nước mắt chực trào rơi xuống.
Chàng và nàng đã gặp nhau trong những ngày tháng vui vẻ nhất cuộc đời. Khi ấy, chàng là vị thiếu gia hiền lành, chất phác còn nàng cũng là vị tiểu cô nương chưa vướng bận u sầu.
Ít lâu sau đó, Châu Doanh vào nhà họ Thẩm làm nha hoàn và bị Thẩm Tinh Di (Trần Hiểu) ép làm vợ lẽ. Vì muốn thoát thân, Châu Doanh đã nhảy vào kiệu của Ngô Sính rồi nhờ chàng đưa ra ngoài. Duyên nợ có muốn tránh cũng không thoát được, Ngô Sính đưa Châu Doanh về nhà họ Ngô rồi chăm sóc nàng tử tế. Thế rồi khi Ngô Sính trong cơn thập tử nhất sinh, Châu Doanh đã tình nguyện bước lên kiệu hoa để làm vợ chàng.
Ngày ấy, Ngô Sính bị thương nặng ở đầu, thầy bùa phán rằng chỉ cần làm đám cưới là chàng sẽ thoát khỏi cơn hôn mê. Ngày giờ cưới đã định, tiểu thư Hồ Vịnh Mai (Hồ Hạnh Nhi) sẽ gả cho Ngô Sính. Nhưng vào phút chót, Vịnh Mai hủy hôn, Châu Doanh bất đắc dĩ phải làm người thay thế.
Chưa từng nói lời yêu nhưng vì cứu Ngô Sính, Châu Doanh đã chấp nhận làm vợ chàng.
Lúc quyết định làm vợ Ngô Sính, nàng chỉ vì một chữ nghĩa. Châu Doanh thương vị thiếu gia hiền lành, không nỡ nhìn nhà họ Ngô mất đi đứa con nối dõi. Thế là nàng cứ nhắm mắt, đưa chân bước lên kiệu hoa trong sự hoang mang của chính mình. Và phép màu thực sự đến, Ngô Sính tỉnh lại ngay ở đêm động phòng. Nhìn thấy Châu Doanh, chàng nở nụ cười rạng rỡ. Hóa ra cô gái ấy thực sự vì chàng mà dám đánh đổi cả cuộc đời.
Vào cái ngày xưa ấy, chuyện tình Châu Doanh - Ngô Sính mới đẹp làm sao!
Ngày đầu làm dâu, Châu Doanh vụng về đến tội nghiệp. Nàng không hiểu lễ nghi phép tắc, cũng chẳng màng đến chuyện sẽ khiến bố mẹ chồng trách phạt. Châu Doanh của Ngô Sính cứ ung dung tự tại, thích thì nàng ở, không thích nàng sẵn sàng bỏ nhà ra đi. Nhưng chính sự ương bướng ấy làm Ngô Sính yêu nàng hơn tất thảy. Chàng để lại sau lưng mối ân tình với Vịnh Mai, khi đã cưới Châu Doanh làm vợ, chàng chỉ biết một điều là phải chăm sóc nàng đến tận giây phút cuối cùng của sự sống! Nhưng mà, năm tháng hạnh phúc sao ngắn ngủi quá! Chỉ nửa năm sau ngày thành thân, Ngô Sính qua đời trong tiếng gào khóc thảm thương của Châu Doanh.
Nàng đã dùng một đời để báo đáp chân tình của chàng!
Nước mắt Châu Doanh đã rơi nhiều lắm, nàng uất nghẹn khi nhìn thấy Ngô Sính tắt thở trước mặt mình. Than ôi, kiếp hồng nhan sao lắm nỗi truân chuyên. Từ khi Ngô Sính mất, Châu Doanh như rơi vào vực thẳm. Khán giả của Năm ấy hoa nở trăng vừa tròn đã không cầm được nước mắt lúc chứng kiến cảnh Châu Doanh xin được chết cùng chồng. Phải chi Ngô Sính không yêu thương nàng hơn cả tính mạng thì chắc có lẽ, Châu Doanh đã không nặng lòng đến thế.
Nếu Ngô Sính không yêu thương Châu Doanh hơn cả mạng sống mình thì chắc có lẽ, nàng cũng không nặng tình đến thế.
Nửa năm làm vợ chàng, nàng đã thực sự hạnh phúc. Ánh mắt, bờ môi, nụ hôn ấy đều là dành cả cho chàng. Và cả trái tim còn in hằn nhiều vết cắt, nàng cũng nguyện đặt nó bên cạnh mộ phần chàng. Yêu đậm sâu như thế, phải chăng rằng Châu Doanh đã quá đa mang?
Nhưng chẳng ai trách được nàng cả, vì nàng biết rõ, Ngô Sính thực sự là người đàn ông chiếm trọn trái tim nàng. Chỉ vì nghĩa tình với Ngô Sính, nàng chấp nhận đánh đổi tất cả, nàng không rời bỏ nhà họ Ngô mà gánh lấy trách nhiệm chấn hưng gia tộc. Dẫu cho ai có trách móc, dè bỉu ra sao, nàng cũng không màng tới. Bởi, mỗi lần cầm tờ giấy có 2 chữ: Ngô Sính, nước mắt nàng lại tuôn rơi.
Mỗi lần nhớ về quá khứ đẹp đẽ khi xưa, nước mắt nàng lại tuôn rơi. Và khi ấy, khán giả của "Năm ấy hoa nở trăng vừa tròn" cũng cảm nhận được nỗi xót xa.
Có nhiều khán giả đã hỏi rằng, lương duyên của Châu Doanh - Ngô Sính có phải là nghiệt duyên? Bởi sau cái đám cưới tưng bừng ấy, hàng loạt bi kịch đã ập đến. Nếu ngày ấy người cưới Ngô Sính là Hồ Vịnh Mai và Châu Doanh an phận làm vợ lẽ của Thẩm Tinh Di, thì há chẳng phải không có ai bị giết? Khi Châu Doanh - Ngô Sính không yêu nhau, Vịnh Mai chẳng phải sẽ không bỏ độc giết Ngô Sính? Khi Ngô Sính không chết, chẳng phải nhà họ Ngô sẽ không tan tành? Và khi Châu Doanh ở bên Tinh Di, chẳng phải bao nhiêu mạng sống đã được giữ lại rồi sao?
Nghĩa tình sâu nặng hay chỉ là một mối nghiệt duyên? Đau đớn lắm! Không ai muốn thừa nhận nhưng thực sự, cuộc hôn nhân này đã làm cả cuộc đời Châu Doanh, Ngô Sính, Vịnh Mai, Tinh Di thay đổi hoàn toàn.
Nửa năm làm vợ chồng ấy đã thay đổi cuộc đời nàng hoàn toàn. Nó ám ảnh đến mức khiến nàng phải từ chối mọi lời cầu hôn sau này.
Ai cũng có quyền lựa chọn con đường mình đi. Nhưng trong xã hội phong kiến cổ hủ, nặng nề, Châu Doanh hay Ngô Sính cũng chỉ là những quân cờ trong tay kẻ cầm quyền. Nàng đã từng yêu như thế, nàng cứ mãi không dứt được bóng hình chàng dù 10 năm đã trôi qua. Trong khoảng thời gian 10 năm ấy, có người chết, có người bị tổn thương sâu sắc, bao nhiêu sóng gió ập đến cuộc đời mỗi người như cách chiếc bánh xe số phận lạnh lùng nghiền nát mọi thứ.
Trái tim nàng đã cùng xuống mộ phần với người chồng tốt kia.
Cũng vì quá vấn vương Ngô Sính nên Châu Doanh đã nhiều lần chối từ tình cảm của Tinh Di. Dù nàng biết Ngô Sính sẽ không thể nào trở lại nhưng mỗi lần có người đàn ông nào bày tỏ tình cảm, Châu Doanh cũng sợ người chồng tốt năm xưa buồn lòng. Nàng có thể mạnh mẽ đối đầu với cả thế giới, nhưng thực tâm trong sâu thẳm, nàng vẫn cần 1 vòng tay chở che.
Chiếc giường của nàng giá lạnh từ lâu, nó chỉ mới nhen nhóm chút hơi ấm khi nàng chịu mở lòng đón nhận tình cảm Tinh Di dành cho mình. Đừng dại dột như thế nữa, đã đến lúc cởi bỏ gánh nặng tình cảm 10 năm, Ngô Sính là quá khứ, là hồi ức thanh xuân tươi đẹp của nàng, nhưng Châu Doanh à, ai cũng cần được sống vui vẻ, hạnh phúc. Cứ ôm mãi khổ đau thì chỉ làm khổ bản thân mình thêm thôi.
Diện Visa F2A là visa cho phép thường trú nhân Mỹ (thẻ xanh) bảo lãnh vợ chồng con cái sang Mỹ sinh sống và làm việc.
Vợ/chồng và con chưa kết hôn dưới 21 tuổi sẽ được Thường trú nhân Mỹ bảo lãnh sang Mỹ và có thẻ xanh tương tự Thường thú nhân Mỹ.
Vợ/chồng của Người bảo lãnh sẽ được sống và làm việc hợp pháp tại Mỹ. Vợ/chồng của Người bảo lãnh muốn làm việc tại Mỹ sẽ phải xin Giấy phép lao động. Con chưa kết hôn dưới 21 tuổi sẽ được đi học tại các trường công lập Mỹ với mức học phí tương tự dành cho công dân Mỹ.
Hồ sơ bảo lãnh sẽ được nộp đến Sở Di trú Mỹ. Bao gồm đơn I-130 cùng các tài liệu khác liên quan đến hồ sơ. Thời gian xử lý hiện tại của Sở Di trú là từ 8 – 10.5 tháng.
Khi hồ sơ được chấp thuận bởi Sở Di trú Mỹ. Sở Di trú Mỹ chuyển hồ sơ đến Trung tâm Visa Quốc gia (NVC).
Hồ sơ được chuyển đến NVC để nộp đơn bảo lãnh tài chính, đóng phí Visa
Người được bảo lãnh nhận thư mời phỏng vấn từ Lãnh sự quán Mỹ
Người được bảo lãnh tiến hành khám sức khỏe. Sau đó tham dự buổi phỏng vấn theo lịch hẹn tại Lãnh sự quán Mỹ. Khi xét đủ điều kiện, Lãnh sự quán sẽ cấp visa cho Người được bảo lãnh.
Tìm hiểu thêm Dịch vụ xin visa bảo lãnh người thân, đoàn tụ gia đình
Anh chị đang có dự định làm hồ sơ bảo lãnh vợ chồng sang Mỹ, liên hệ ngay công ty tư vấn định cư uy tín EU Immi để hiểu rõ quy trình thực hiện hồ sơ nhanh chóng và chính xác nhất.
Giấy phép xuất bản số 110/GP - BTTTT cấp ngày 24.3.2020 © 2003-2024 Bản quyền thuộc về Báo Thanh Niên. Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản.
Người đàn ông Hàn Quốc bạo hành tàn nhẫn người vợ Việt Nam nói với phóng viên rằng ông ta tin những người chồng khác cũng sẽ hành xử giống mình trong tình huống tương tự.