Thư viện là gì? Thư viện trường học thuộc loại hình thư viện nào theo pháp luật Việt Nam? Cùng VIELIB tìm hiểu các mô hình thư viện và các loại hình thư viện hiện hành trong bài viết dưới đây.
THƯ VIỆN KHTH THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Địa chỉ: Số 213A – Lạch Tray, Q. Ngô Quyền, Tp. Hải Phòng
Website/Cổng Thông tin: thuvienhaiphong.org.vn
Email: [email protected]
Địa chỉ: Số 33 Trần Phú (46 Bạch Đằng), phường Hải Châu 1, Q. Hải Châu, Tp. Đà Nẵng
Website/Cổng Thông tin: thuvien.danang.gov.vn
Địa chỉ: Số 01 Phan Đình Phùng, Phường Tân An, Quận Ninh Kiều, Tp. Cần Thơ
Điện thoại: (0292) 382.0967; Fax: (0292) 382.0601
Website/Cổng Thông tin: www.thuviencantho.vn hoặc www.cantholib.org.vn
Email: [email protected]
Địa chỉ: Số 16, Lê Triệu Kiết, phường Mỹ Bình, TP. Long Xuyên, tỉnh An Giang
Thời gian thành lập: 14/02/1978
Website/Cổng Thông tin: thuvienangiang.com
Email: [email protected]
Các loại hình thư viện và mạng lưới thư viện ở Việt Nam
Để phân chia được chính xác các loại hình thư viện, thường căn cứ vào những đặc điểm giống nhau, khác nhau của thư viện để chia thành từng nhóm, đó có thể là chức năng, nhiệm vụ, tài liệu, sách báo mà thư viện cung cấp. Ngoài ra, còn dựa vào phương thức phục vụ, ví trí lãnh thổ, cách thức quản lý để phân rõ loại hình thư viện.
Mạng lưới thư viện là một hệ thống các thư viện gắn kết, hợp tác với nhau để chia sẻ tài liệu, tài nguyên. Mục tiêu của mạng lưới thư viện là mở rộng phạm vi và tiếp cận của độc giả đến các tài liệu và dịch vụ thư viện mà không bị giới hạn bởi địa lý hay cơ sở vật chất.
Thư viện theo pháp luật Việt Nam (Khoản 1, Điều 9 Luật Thư viện) được chia làm 8 loại:
1. Thư viện Quốc gia Việt Nam tiền thân là Thư viện Trung ương Đông Dương được gây dựng ngày 29/11/1917. “Thư viện Quốc gia Việt Nam là thư viện trung tâm của cả nước” với nhiệm vụ, quyền hạn được quy định rõ tại Điều 4, Điều 10 Luật thư viện.
2. Thư viện công cộng: Theo Điều 11 Luật thư viện “Thư viện công cộng là thư viện có tài nguyên thông tin tổng hợp phục vụ Nhân dân”. Thư viện công cộng thường được đặt tên theo cấu trúc: Thư viện + cấp hành chính + tên địa phương.
3. Thư viện chuyên ngành: Khoản 1, Điều 12 Luật thư viện có chỉ rõ “Thư viện chuyên ngành là thư viện trong đó các tài nguyên thông tin được phân bổ chuyên sâu về một ngành hoặc nhiều ngành, lĩnh vực để phục vụ cho các cán bộ, công viên chức, người lao động của cơ quan chủ quản. Mục đích của thư viện chuyên ngành là để phục vụ các hoạt động nguyên cứu, tích lũy các kiến thức cũng như kinh nghiệm mang tính ứng dụng cao vào đời sống
4. Thư viện lực lượng vũ trang nhân dân: Là thư viện của các đơn vị Quân đội, công an nhân dân với các tài nguyên chuyên ngành quốc phòng, an ninh để phục vụ cho các chiến sĩ, Nhân dân địa phương.
5. Thư viện cơ sở giáo dục đại học hay Thư viện đại học: Là thư viện đặc trưng tại Việt Nam, phần lớn các trường đại học đều sở hữu một thư viện riêng để phục vụ cho công tác giảng dạy, học tập của giáo viên, sinh viên. Hiện nay, các thư viện đại học đang rất tích cực trong việc xây dựng kho
để giúp bạn đọc, giảng viên tiếp cận tài nguyên nhanh chóng, tiện lợi.
6. Thư viện cơ sở giáo dục mầm non, cơ sở giáo dục phổ thông, cơ sở giáo dục nghề nghiệp và cơ sở giáo dục khác: tài nguyên trong loại hình thư viện này là các tài nguyên phục vụ người dạy và học trong các cơ sở giáo dục. Số lượng tài liệu trong thư viện cũng ít hơn và không đa dạng như thư viện đại học.
7. Thư viện cộng đồng và thư viện tư nhân có phục vụ cộng đồng: Là thư viện có thêm sự gia nhập của thư viện khác, các tài liệu, thông tin được tổng hợp do cộng đồng dân cư thành lập tại các trung tâm cộng đồng như văn hóa, thể thao, bưu điện xã, thị trấn…. Thư viện tư nhân có chức năng phục vụ cộng đồng là thư viện do tổ chức, cá nhân có chuyên ngành của Việt Nam thành lập và đảm bảo kinh phí để hoạt động.
8. Thư viện của tổ chức, cá nhân nước ngoài có phục vụ người Việt Nam: Đây là loại hình thư viện mang tính đặc thù riêng và không phổ biến trong nước ta bởi lo sợ sự ảnh hưởng của việc truyền bá tư tưởng, du nhập văn hóa, truyền bá thông tin gây mất trật tự, ảnh hưởng đến chính trị xã hội trong nước.
Thư viện được tổ chức theo các mô hình sau đây:
a) Thư viện công lập: Đây là các thư viện được đầu tư và bảo đảm hoạt động bởi Nhà nước được tổ chức theo mô hình đơn vị sự nghiệp công lập hoặc được điều chỉnh theo mô hình phù hợp với cơ quan chủ quản.
b) Thư viện ngoài công lập: Đây là các thư viện do tổ chức, cá nhân Việt Nam hoặc tổ chức, cá nhân nước ngoài hoặc cộng đồng dân cư đầu tư và bảo đảm hoạt động. Các thư viện này thường được tổ chức theo mô hình doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp hoặc mô hình khác.
Giáo hội Công giáo đã trải qua hơn 2000 năm hình thành và phát triển, được chia thành bốn giai đoạn: Cổ đại, Trung đại, Cận đại và Hiện đại. Có những giai đoạn, tưởng chừng Giáo hội sẽ sụp đổ hoàn toàn khi rơi vào những cơn khủng hoảng, suy thoái trầm trọng. Nhưng trong thánh ý và chương trình cứu độ của Thiên Chúa, đến nay Giáo hội vẫn tồn tại và mở ra với thế giới như một khí cụ của lòng xót thương để chữa lành, để bảo vệ cho công lý, hòa bình, hiệp nhất và yêu thương. Nhìn lại lịch sử Giáo hội cũng là nhìn lại lịch sử cứu độ, lịch sử tình thương mà Thiên Chúa đã dành cho nhân loại, từ đó thêm lòng tin tưởng, cảm thông và mộ mến Giáo hội hơn, vì lịch sử không chỉ là quá khứ nhưng còn là bài học cho hiện tại và hướng mở đến tương lai. Bài làm xin trình bày cách tổng quát dòng Lịch sử Giáo hội qua các giai đoạn được phân chia.
1. Giai đoạn Cổ đại (năm 33 – 395 AC)
Mốc điểm năm 33 được chọn, với biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống không phải là thời điểm Giáo hội được khai sinh, nhưng đúng hơn là thời gian Giáo hội chính thức có lịch sử tính, qua những sử liệu được ghi chép lại. Và mốc điểm năm 395 AC khép lại, nhằm đánh dấu sự kiện hoàng đế Theodosius I qua đời đã chia đất nước cho hai người con, phía Đông cho Arcadius và phía Tây cho Honorius. Và lần chia này đất nước vĩnh viễn bị chia cắt, không bao giờ tái nhập lại nữa.
Đặc điểm giai đoạn này là Giáo hội còn rất non trẻ, chưa có cơ cấu, tổ chức vững chắc, chưa có cơ sở đền đài, nơi thờ tự, chỉ có một cộng đoàn nhỏ bé ở Giêrusalem. Thêm vào đó, Giáo hội phải đối diện với nhiều khó khăn nội tại lẫn ngoại tại. Vì là một tôn giáo bất hợp pháp, nên bên ngoài, Giáo hội phải chịu những cuộc bách hại đẫm máu do các thế lực lãnh đạo Do Thái, các vua chúa khoảng 250 năm, từ thời vua Nero năm 64, cho đến thời hoàng đế Constantine chính thức tha bách đạo năm 311. Họ bách hại không chỉ bằng bạo lực mà còn tấn công vào đời sống Giáo hội, giáo thuyết, nền tảng, niềm tin và thực hành Kitô Giáo, gây tổn thất rất lớn cho Giáo hội còn hơn đầu rơi máu đổ. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh càng bị bách hại thì Giáo hội càng phát triển, như lời thánh Tertuliano: Máu các thánh tử đạo là hạt giống nảy sinh đức tin. Ngày 30/4 năm 313, với sắc chỉ Milan được ban dưới thời hoàng đế Constantine, Kitô Giáo được công nhận là một tôn giáo chính thức và hợp pháp. Từ đây, Giáo hội được bảo vệ bởi luật pháp, công nhận tự do, được trả lại tài sản và được tặng nhiều tài sản khác. Trong đó, có cung điện Latran (Laterano) - nhà thờ cung hiến đầu tiên được công nhận là nhà thờ Mẹ và là nhà thờ chánh tòa của Rôma. Năm 379, hoàng đế Theodosius I lên ngôi. Năm 380, ông chọn Kitô Giáo làm Quốc Giáo của đế quốc La Mã.
Về khó khăn nội tại, vì khuynh hướng chung thời này là muốn thích nghi Kitô Giáo với đạo Do Thái, nên đã nảy sinh những lạc giáo, lạc thuyết phủ nhận thiên tính của Đức Giêsu (lạc thuyết Arius/Dưỡng tử thuyết); hoặc phủ nhận nhân tính của Đức Giêsu (lạc thuyết Eutykes/Ảo thân thuyết)... Để chống lại những lạc thuyết này, Giáo hội đã không ngừng nỗ lực bảo vệ chân lý nền tảng về Thiên Chúa qua bốn công đồng đầu tiên: Nicea 325 và Constantinople 381 với tín biểu Kinh Tin Kính, thuật ngữ “homoousios/đồng bản thể” ra đời; công đồng Êphêsô 431 bảo vệ phẩm tước “theotokos/Đức Maria Mẹ Thiên Chúa”; công đồng Calcedonia 451 bảo vệ mầu nhiệm ngôi hiệp. Cả bốn công đồng đều nhằm bảo vệ Đức Giêsu là con người thật và là Thiên Chúa thật.
2. Giai đoạn Trung Đại (đầu thế kỷ V - cuối thế kỷ XV)
Cuối giai đoạn Cổ đại, đã manh nha sự chịu ơn giữa thế quyền và thần quyền. Để rồi, suốt thời gian dài Trung cổ từ đầu thế kỷ V đến cuối thế kỷ XV nổi bật lên đặc điểm là sự liên kết rất chặt chẽ, đôi khi là một với nhau giữa thế quyền và thần quyền. Từ đó đưa đến hai hệ quả: mặt tích cực, Giáo hội phát triển rực rỡ về hình thức bên ngoài, đời sống, tài sản, cơ cấu, tổ chức, nơi thờ tự, quyền bính và tầm ảnh hưởng…; hệ quả tiêu cực: đời sống nội tại ngày càng suy thoái, lũng đoạn, đi sai lệch con đường thanh bần ban đầu của Đức Kitô. Đây được xem là giai đoạn khủng hoảng trầm trọng nhất của lịch sử Giáo hội. Giai đoạn này được chia thành hai thời kỳ nhỏ. Thời kỳ thứ nhất, từ thế kỷ V – XI (1059), thế quyền thắng thế trên thần quyền. Thời kỳ thứ hai, từ năm 1059 đến thế kỷ XV, thần quyền thắng thế.
Thời kỳ thứ nhất, khi thế quyền thắng thế, hoàng đế can thiệp sâu vào nội bộ của Giáo hội trong việc bầu chọn giáo hoàng, chỉ định và tấn phong giám mục. Các Giám mục thời này trở thành công cụ chính trị để phục vụ cho đế quốc, họ chỉ chú tâm đến lợi ích và vương quốc trần thế. Từ đó dẫn đến nạn mại thánh, mua quan tiến chức, có rất ít vị mục tử tốt lành, thánh thiện trong Giáo hội để chăm lo cho đoàn chiên Chúa. Tính đến hôm nay, Giáo hội có 266 triều đại giáo hoàng, nhưng chỉ có 264 vị, có vị làm giáo hoàng đến ba triều đại vì lên ngôi lúc mới 12 tuổi. Thế quyền thắng thế, đến nỗi tám công đồng đầu tiên: Nicaea I (325) – Constantinople IV (870) đều do các hoàng đế triệu tập.
Tuy vậy, Chúa Thánh Thần vẫn hằng hiện diện và làm việc trong Hội Thánh, đang khi hàng giáo sĩ khủng hoảng, suy thoái, thì vẫn còn những vị mục tử tốt lành dám đứng lên canh tân, cải cách Giáo hội. Nổi bật là cuộc cải cách của Đức Nicolas II (1059), ngài chủ trương Giáo hội phải có những vị mục tử đúng nghĩa, ngài giải lời tuyên thệ và đưa hàng lãnh đạo Giáo hội trở về vai trò mục tử. Năm 1059, ngài ban hành sắc lệnh: việc bầu chọn giáo hoàng được trao quyền cho các hồng y và cấm nhận chức thánh từ người đời. Và Đức Gregorio VII (1078), ngài tuyên bố: “Ta có quyền trực tiếp trong lĩnh vực thiêng liêng và có quyền gián tiếp trong lĩnh vực trần thế, mọi Kitô hữu phải vâng phục giáo hoàng.” Nhưng dần dần cuộc cải cách này đi chệch hướng và dẫn đến đảo ngược tình thế, thần quyền thắng thế. Để rồi đến thời Đức Inocente III với chủ thuyết “hai thanh gươm” đã nói lên ý nghĩa quyền bính “đạo-đời” giờ tay hoàn toàn nằm trong tay giáo hoàng. Thời này, cũng được gọi là thời Kitô Giới, khi Giáo hội Kitô chi phối cả thế giới chính trị, văn hóa và xã hội. Chính vì vậy, thời Trung đại đã xảy ra rất nhiều biến cố: các cuộc Thập Tự Chinh; những sai lầm Giáo hội phạm phải khi dùng quyền áp đặt trên lĩnh vực: khoa học, kỹ thuật, tòa án dị giáo, giàn hỏa thiêu… Các cuộc chiến tranh chấp quyền bính giữa thế quyền và thần quyền; ngay cả trong Giáo hội, phe Pháp, phe Ý đối đầu để rồi dẫn đến thời lưu đày Avignon (1309-1377), và cuộc đại ly giáo Tây Phương năm 1054. Như vậy, cuối thời Trung Cổ tình trạng Giáo Hội rất bất ổn, khủng hoảng và suy thoái trầm trọng.
3. Thời Cận Đại (đầu thế kỷ XVI - công đồng Vaticanô II)
Thời Cận đại, đặc điểm nổi bật là “cải cách” với mốc thời gian từ đầu thế kỷ XVI đến công đồng Vaticanô II. Thực ra, thời Trung đại đã có những cuộc cải cách của những gương mặt thánh thiện, đạo đức: thánh Nicola II, Gregorio VII, thánh Catarina Siena, thánh Gioan Thánh Giá,… và hai tiếng nói của hai dòng thánh Phanxico Assisi (1209), thánh Đa Minh (1215). Tuy nhiên, đó chỉ là những cuộc cải cách nhỏ lẻ, chưa thể vực dậy đời sống Giáo hội. Cho đến thời Cận đại, công cuộc cải cách mới được bùng phát cách mạnh mẽ, nhưng cũng từ đó đã dẫn đến những cuộc đổ vỡ đau buồn trong Giáo Hội. Điển hình, cuộc cải cách của Luther (1517), và cuộc ly khai Anh Giáo (1534). Trước những biến cố này, công đồng Trentô (1545-1563), công đồng cải cách và phản cải cách được xem như đỉnh cao phong trào cải cách của Giáo hội. Tuy đạt được nhiều kết quả, nhưng rất ì ạch, trì trệ và bị gián đoạn trong thời gian 18 năm, qua năm triều đại giáo hoàng vì gặp phải những khó khăn trong chính nội bộ Giáo hội; mặt khác phải chống lại Tin Lành, cùng tinh thần chủ nghĩa quốc gia dân tộc và chủ nghĩa quốc giáo đang bành trướng rất mạnh mẽ trong thời này.
Tuy cải cách, nhưng Giáo hội vẫn còn bị ảnh hưởng nặng nề bởi những tư tưởng thời Trung đại, từ đó phát sinh các phong trào: phong trào phục hưng - giải thoát con người về phương diện nhân bản, thân xác; và phong trào khai sáng giải thoát con người về phương diện lý trí. Các phong trào này từng bước phủ nhận chân lý mầu nhiệm tôn giáo, cho rằng tôn giáo đè nén và là “thuốc phiện” ru ngủ, làm cho con người không thể phát triển về phương diện lý trí, nhân bản. Những chủ thuyết: duy lý, duy thực, duy khoa học, duy tâm… nhằm loại trừ tôn giáo dần dần được đẩy mạnh đã dẫn đến sự ra đời chủ thuyết vô thần. Để rồi, với Công đồng Vaticanô I (1869-1870) quyền bính giáo hoàng và tải sản Giáo hội dần bị thu hẹp. Công đồng chỉ bảo vệ điều duy nhất còn lại là quyền tối thượng của giáo hoàng và bảo vệ chân lý đức tin với tín điều Pastor Aeternus về quyền tôn giáo. Dường như Thiên Chúa dùng uy thế kẻ dữ để giúp Giáo hội nhận ra và trở về. Vaticanô I vừa diễn ra được một năm thì quân đội ý đánh chiếm tòa thánh Rôma. Công đồng bị sụp đổ, nước Tòa thánh bị xóa sổ. Cho đến ngày 11/3/1929, với hiệp ước Latran giữa chính phú Ý với Vatican, nước tòa thánh mới được tái thiết lập cho đến nay, với diện tích khiêm tốn mang hình thức biểu trưng 44 ha.
Thời này, Giáo hội từng bước độc lập thoát ra khỏi quyền bính chính trị, tách biệt thần quyền thế quyền, mà công đồng Vaticanô II (1962-1965) là công đồng đánh dấu sự cải cách thực sự và triệt để, được ví như làn gió mới của Chúa Thánh Thần thổi vào hồn sống của Giáo hội. Đây là công đồng của tự do và đối thoại, mục vụ, và nguồn sáng mới khi nói cho Thế giới bằng cách nhìn lại và canh tân chính mình, trở về với nguồn mạch Thánh Kinh, Thánh Truyền, về lại với mô thức Giáo hội mà Đức Kitô thiết lập, một Giáo hội nghèo, phục vụ người nghèo, không nắm giữ, không tham gia quyền bính chính trị, không chạy theo tinh thần thế tục. Giáo hội từ đây khiêm tốn hơn, không lên án, chống đối hay kết án như những công đồng trước đã làm. Lúc này, Giáo hội hiện diện như một quốc gia nhưng chỉ là công cụ phục vụ cho công lý, hòa bình, hiệp nhất, yêu thương của nhân loại.
4. Giai đoạn Hiện đại (từ Vaticanô II – nay)
Gần 60 năm tinh thần cải cách công đồng Vaticanô II cho đến ngày hôm nay vẫn còn được tiếp diễn và chuyển đưa Giáo hội sang thời Hiện đại. Từ thời Đức Gioan Phaolô II, Đức Benedictô XVI, và Đức Phanxicô đã có rất nhiều văn kiện, thông điệp để áp dụng tinh thần cải cách, về nguồn, hiệp nhất… và cho đến hôm nay, Giáo hội đã đạt được nhiều kết quả trong công cuộc cải cách của mình, nhưng các nội dung của công đồng vẫn còn rất hiện sinh và phong phú chưa được áp dụng và khai triển hết. Đồng thời, trước những vấn nạn thời đại đang tấn công vào Giáo hội: nạn phá thai, hôn nhân đồng tính, hủy bỏ luật độc thân giáo sĩ, truyền chức linh mục cho phụ nữ… Giáo hội như kiên định hơn trong niềm tin, vững vàng trên nền tảng chân lý của chính mình là có quyền năng, có ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa hằng hiện diện, dẫn dắt và làm việc trong Giáo hội, vì “Thiên Chúa vẽ đường thẳng trên những đường cong”.
Nhìn lại lịch sử hơn 2000 năm qua bốn giai đoạn, chúng ta nhận ra rằng Giáo hội không ở ngoài, không ở trên, cũng không ở bên lề lịch sử nhân loại, trái lại luôn chịu sự tác động và chi phối bởi bối cảnh văn hóa, chính trị, xã hội. Giáo hội tuy thánh thiện nhưng cũng là cơ cấu nhân loại hữu hình, nên vẫn còn những yếu đuối, bất toàn. Với những biến cố qua từng chặng lịch sử, chúng ta càng ý thức và xác tín sâu xa hơn Giáo Hội là của Chúa, Thiên Chúa hằng ở với, ở trong và ở cùng chúng ta, vì Người là Đấng “Emmanuel”. Và cho dẫu, khi thế lực sự dữ tưởng chừng như thắng thế, Giáo hội vẫn không đánh mất hy vọng và bình an xác tín vào lời Chúa Giêsu: “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian”. (Ga 16,33)
Hướng đến Kỷ niệm 107 năm (29/11/1917 - 29/11/2024), được sự đồng ý của Đảng ủy, Lãnh đạo đơn vị, sáng ngày 21/11/2024, Ban Chấp hành Công đoàn TVQG đã tổ chức Hội thi văn nghệ với chủ đề: “Tự hào tiếp bước”. Hội thi diễn ra trong không khí tưng bừng, tràn đầy cảm xúc, thu hút hơn 100 thí sinh đến từ 09 Tổ Công đoàn thuộc các phòng, ban trong đơn vị. Đây là là sân chơi thú vị, bổ ích giúp cho các đoàn viên công đoàn của TVQG có cơ hội giao lưu, gần gũi đồng thời bộc lộ tài năng ca hát, phát huy khả năng sáng tạo, khẳng định bản thân.
Từ ngày 15-17/11/2024, tại Dubai, Các Tiểu Vương quốc Ả-rập thống nhất, Hội nghị thường niên của diễn đàn Giám đốc Thư viện Quốc gia các nước châu Á – châu Đại Dương lần thứ 30 (CDNL-AO 30) và Hội thảo chuyên đề “Thư viện và sự phát triển bền vững” đã diễn ra tại Thư viện Mohammed bin Rashid với sự tham gia của 33 đại biểu đại diện 16 thư viện quốc gia các nước trong khu vực. Đoàn Thư viện Quốc gia Việt Nam (TVQG) do bà Nguyễn Ngọc Anh, Phó Giám đốc làm Trưởng đoàn tham dự và tham luận tại Hội nghị với chủ đề “Thư viện xanh: Điểm hội tụ, kết nối, chào đón tri thức”
Từ ngày 27-30/10/2024, Hội nghị toàn thể lần thứ 3 của Uỷ ban Phát triển Văn hoá đọc cho trẻ em các nước ASEAN - Hàn Quốc với mục tiêu tập trung vào sự tiến bộ trong việc phát triển nâng cao văn hoá đọc và trình độ đọc, viết của trẻ em ASEAN - Hàn Quốc đã được tổ chức tại thủ đô Seoul (Hàn Quốc). Thư viện Quốc gia Việt Nam với tư cách là thành viên chính thức của Dự án đã tham gia cùng đánh giá kết quả thực hiện các mục tiêu chung đã đề ra và thảo luận về định hướng hợp tác lâu dài giữa các nước thành viên.
Địa chỉ: 31 Tràng Thi, Phường Hàng Trống, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội
Thời gian thành lập: 29/11/1917
Website/Cổng Thông tin: www.nlv.gov.vn
Địa chỉ: 47 Bà Triệu, Phường Hàng Bài, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội
Điện thoại: (024) 3. 825.4817; Fax: (024) 39369100
Thời gian thành lập: 15/10/1956
Website/Cổng Thông tin: www.thuvienhanoi.org.vn
Email: [email protected]